Kết quả thực hiện các dự án về Chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình năm 2004 ở Lâm đồng
Năm 2004 là năm thứ tư tỉnh Lâm Đồng thực hiện chương trình Dân số - Kế hoạch hoá gia đình (DS - KHHGĐ) trong Chiến lược phát triển dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 với mục tiêu: Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Đây là năm Lâm Đồng thực hiện chương trình DS - KHHGĐ có nhiều kết quả so với những năm trước. Hầu hết các chỉ tiêu về DS - KHHGĐ do Hội đồng Nhân dân tỉnh đề ra đều đạt và vượt kế hoạch, tỷ lệ sinh chung toàn tỉnh giảm 0,6%o so với năm 2003, là tỉnh có tỷ suất sinh thấp nhất trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Kết quả này đã góp phần tích cực vào việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đạt được thành tựu trên phải kể đến vai trò quan trọng của các dự án cho từng mặt hoạt động của chương trình DS - KHHGĐ.
Đối với công tác tuyên truyền, vận động có Dự án truyền thông chuyển đổi hành vi. Đây là một hoạt động không thể thiếu và mang lại nhiều hiệu quả trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng. Vì có hiểu biết mới tạo được sự chuyển biến trong nhận thức và từ đó mới có ý thức chuyển đổi hành vi trong thực tế.
Ngay từ đầu năm, Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em tỉnh đã cùng báo Lâm Đồng, Đài Phát thanh, truyền hình tỉnh đề ra kế hoạch và nội dung tuyên truyền từng tháng, tập trung cao vào những ngày có chiến dịch dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản - kế hoạch hoá gia đình (SKSS - KHHGĐ). Nội dung tuyên truyền là các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về DS - GĐ - TE, về Pháp lệnh Dân số và những hướng dẫn cụ thể về chuyên môn của công tác DS - KHHGĐ; nêu gương người tốt việc tốt và những điển hình tiên tiến về thực hiện công tác DS - GĐ - TE... Hình thức tuyên truyền có nhiều đổi mới, phong phú, phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn dân cư, từng vùng có mức sinh khác nhau. Uỷ ban DS - GĐ - TE đã cấp phát hàng nghìn bản tài liệu, sách hướng dẫn cách nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, kinh nghiệm làm kinh tế, kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt... phát hàng ngàn tờ rơi có nội dung về 3 gói dịch vụ làm mẹ an toàn, phòng viêm nhiễm đường sinh sản, thông tin về giới...Uỷ ban đã cùng Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Văn hoá - Thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn đưa chính sách dân số vào hương ước, quy ước của thôn, bản, dòng họ ở 5 huyện: Lạc Dương, Đơn Dương, Đức Trọng, Lâm Hà và Bảo Lâm, từ đó rút kinh nghiệm triển khai rộng ra các huyện trong toàn tỉnh; xây dựng và chỉ đạo một số xã, phường không có người sinh con thứ ba ở huyện Đức Trọng, Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt. ở 106 xã, phường có mức sinh cao và 135 xã vùng sâu, vùng xa, Lâm Đồng tập trung mở chiến dịch phục vụ dịch vụ chăm sóc SKSS - KHHGĐ. Vào những ngày chiến dịch, công tác tuyên truyền cũng được lồng ghép, bám sát phục vụ gây không khí tưng bừng như ngày hội của chị em. Đặc biệt, Lâm Đồng chú trọng tới sự tuyên truyền trực tiếp, giải thích, tư vấn cho các đối tượng của lực lượng cộng tác viên, họ là những người gặp gỡ các đối tượng tại gia đình, trong sinh hoạt Câu lạc bộ, đoàn thể rất dễ dàng và sự thuyết phục dễ đi vào lòng người.
Trong công tác bảo vệ sức khoẻ phụ nữ có Dự án chăm sóc SKSS - KHHGĐ. Trọng tâm của dự án là cung ứng các phương tiện thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại. Trong năm, Uỷ ban DS - GĐ - TE đã cung cấp kip thời, đầy đủ theo yêu cầu của các đối tượng sử dụng gồm: 14.016 vòng tránh thai, 557.500 bao cao su, 107.072 vỉ thuốc uống, 550 liều thuốc cấy, 15.700 lọ thuốc tiêm tránh thai và 1.130 test thử... Kết quả đã có 141.265 cặp, trong đó có 69.673 cặp vợ chồng mới cưới áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại tăng hơn năm 2003 là 2.501 cặp vợ chồng, đạt 100% kế hoạch đề ra. Về chăm sóc SKSS, đã khám và điều trị phụ khoa cho 101.400 người, soi tươi 12.587 người, khám thai cho 16.520 lượt người, cấp gói đẻ sạch cho 620 người... Tổng chi phí thực hiện dự án là 1.258 triệu đồng.
ở những vùng khó khăn có Dự án tăng cường dịch vụ chăm sóc SKSS - KHHGĐ ở vùng khó khăn. Chủ yếu dự án này thực hiện ở các xã có khó khăn, có mức sinh cao. Qua 1 năm triển khai các gói dịch vụ chăm sóc SKSS - KHHGĐ, đã khám phụ khoa cho 64.296 chị em, phát hiện có 12.587 trường hợp mắc bệnh phụ khoa và đã được điều trị... Nhờ có dự án này mà tỉnh Lâm Đồng đã hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch về sử dụng các biện pháp phòng tránh thai hiện đại và cải thiện đáng kể tình trạng SKSS của chị em ở các vùng có nhiều khó khăn.
Ngoài các dự án riêng biệt từng mặt hoạt động của Chương trình DS - KHHGĐ, còn có Dự án lồng ghép dân số với phát triển gia đình bền vững. Đây là dự án cho vay vốn, lãi suất thấp với mục đích: Giúp nhau chăm sóc SKSS - KHHGĐ và phát triển sản xuất. Các đối tượng được vay thuộc diện nghèo, có nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, nhưng phải cam kết: Thực hiện kế hoạch hóa gia đình; nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, xây dựng gia đình hạnh phúc; chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Ngân hàng chính sách xã hội. Dự án được triển khai ở 19 xã với 25 nhóm gồm 2.222 gia đình. Năm 2004 đã giải ngân số vốn là 9.000 triệu, nâng tổng số dự án nợ vay lên 11.459 triệu đồng. Các gia đình tham gia dự án đều chấp hành đúng những quy định về sử dụng vốn, hoàn trả lãi đúng kỳ hạn. Các hộ này không những thực hiện tốt chính sách DS - KHHGĐ mà cuộc sống của họ cũng được nâng lên rõ rệt, nhiều hộ xoá được đói, giảm được nghèo. Mức sinh ở các xã thực hiện dự án giảm rõ rệt.
ở tỉnh Lâm Đồng ngoài các dự án nêu trên còn có các dự án: Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý dân số; Nâng cao năng lực quản lý; Truyền thông tư vấn quyền trẻ em; Nâng cao quyền phụ nữ và quyền trẻ em; Cải thiện điều kiện dinh dưỡng cho trẻ em; Cấp học bổng cho trẻ em mồ côi; Tuyên truyền viên và Câu lạc bộ SKSS vị thành niên, thanh niên...
Qua giám sát, kiểm tra, đánh giá của các cấp có thẩm quyền, việc thực hiện các dự án về công tác DS - GĐ và TE ở Lâm Đồng nhìn chung đều đúng mục đích, đúng đối tượng, mang lại nhiều hiệu quả về giảm sinh, giảm tốc độ gia tăng dân số và cải thiện đời sống nhân dân trong tỉnh.
Tuy nhiên, ở Lâm Đồng mức sinh có giảm song chưa thực sự vững chắc. ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên còn cao (một số xã của huyện Lạc Dương cũ tỷ lệ này tới trên 50%). Mức sinh chung và mức sinh con thứ 3 trở lên có xu hướng tăng ở các huyện Đức Trọng, Lạc Dương, Đạ Huoai, thị xã Bảo Lộc, thành phố Đà Lạt. ở một số xã vẫn còn tình trạng ngược đãi trẻ em, trẻ em bỏ học, phạm pháp, sống lang thang... chưa có những biện pháp tích cực để giải quyết. Những hạn chế, yếu kém và những tiềm ẩn gia tăng dân số trên đây đang được Lâm Đồng tiếp tục khắc phục trong năm 2005.
Kết quả thực hiện chính sách DS - KHHGĐ ở Lâm Đồng năm 2004 qua các dự án đã đạt nhiều kết quả, vì ở đây có sự chỉ đạo và thực hiện của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể, các hội quần chúng được tập trung hơn; có thực lực để hoàn thành nhiệm vụ; trong nhân dân có phong trào lôi cuốn. Nhất là có sự cố gắng lớn lao của Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em tỉnh. Chính vì vậy, Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em tỉnh Lâm Đồng đã được Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em Việt Nam tặng thưởng cờ thi đua "Đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2004" và được đề nghị Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba./.
___________________________
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
- Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
- Về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Trong 33 năm làm việc ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tôi có 30 năm gắn bó với Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, cho dù tôi không phải trực tiếp biên chế công tác tại đây.
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác văn hóa, văn nghệ, trong những năm qua, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm lãnh đạo công tác này, qua đó đạt được một số kết quả khá quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung về kinh tế - văn hóa - xã hội của Thành phố. Trên cơ sở phân tích thực trạng lãnh đạo công tác văn hóa, văn nghệ của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy đối với công tác này trong thời gian tới.
Bình luận