Về nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (bổ sung năm 2011), trên cơ sở kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ghi rõ:
1. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Điều 6 Hiến pháp năm 2013 còn xác định rõ cách thức để Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước: “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Để vận dụng trên thực tế nguyên tắc hiến định về tổ chức quyền lực ở nước ta hiện nay cần nhận thức đầy đủ về những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, về sự thống nhất quyền lực
Quyền lực Nhà nước là thống nhất không phân chia. Sự thống nhất quyền lực Nhà nước xuất phát từ ba phương diện: về chính trị - nền tảng của sự thống nhất đó là chế độ chính trị nhất nguyên. Đây là điều kiện cơ bản để tạo nên sự thống nhất cao trong đời sống nhà nước, hệ thống chính trị thống nhất là một đòi hỏi mang tính nội tại của chế độ xã hội trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhất nguyên chính trị phải luôn là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa - một nhà nước đòi hỏi tính thống nhất cao trong tổ chức cũng như trong hoạt động để có thể đạt được các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Tính nhất nguyên chính trị được thể hiện trong việc khẳng định vai trò lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất của một nền dân chủ không lệ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà lệ thuộc vào việc đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào mục đích gì. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng duy nhất cầm quyền - đối với nhà nước và xã hội là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam, bởi vì Đảng luôn “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”(1), Đảng luôn tự đặt mình trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật(2); về pháp lý - quyền lực nhà nước gồm ba yếu tố không thể tách rời là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba nhánh quyền lực này tồn tại cùng với sự xuất hiện nhà nước. Nhà nước ban hành pháp luật, nhà nước thực hiện pháp luật và nhà nước bảo vệ pháp luật; về mặt xã hội - ở nước ta, bản chất của chế độ chính trị, kinh tế đó tạo ra những điều kiện khách quan gắn kết các giai cấp, dân tộc, các tầng lớp nhân dân thành một khối thống nhất bền chặt về ý chí, tư tưởng và lợi ích. Mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân đoàn kết thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc.
Thứ hai, về sự phân công và phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước
Phân công lao động là yêu cầu khách quan của mọi quá trình xã hội. Thực tiễn chỉ ra, ở đâu có sự phân công trách nhiệm một cách rõ ràng, minh bạch thì ở đó công việc được tiến hành hiệu quả. Mục đích của sự phân công quyền lực nhà nước là để phân định rõ ràng nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, để mỗi cơ quan nhà nước chủ động và tự chịu trách nhiệm trước nhân dân, khắc phục tình trạng chồng chéo, gây cản trở công việc của nhau trong thực thi quyền lực nhà nước, đảm bảo tính pháp quyền của hoạt động nhà nước và phát huy dân chủ XHCN.
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước là quyền lực được nhân dân ủy quyền. Do đòi hỏi khách quan, quyền lực nhà nước phải được lượng hóa, phân định thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để giao cho các cơ quan khác nhau trong bộ máy nhà nước thực hiện thay mặt nhân dân. Quyền lực nhà nước mà nhân dân ủy quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện suy cho cùng là ủy quyền cho những cơ quan và những con người cụ thể để thực thi. Quyền lập pháp giao cho Quốc hội, quyền hành pháp giao cho Chính phủ, quyền tư pháp giao cho Toà án. Sự phân định như vậy là điều kiện cơ bản để nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các quyền mà mình đã giao. Đồng thời cũng là để cho các cơ quan được ủy quyền xác định đúng và đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quyền lực nhà nước mà nhân dân đó giao cho mình.
+ Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
+ Chính phủ thực hiện quyền hành pháp. Hệ thống các cơ quan hành chính được tổ chức và điều hành thống nhất từ trung ương đến địa phương để giải quyết các công việc cụ thể phục vụ nhân dân.
+ Toà án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Tòa án được Hiến pháp xác định là cơ quan xét xử của Nhà nước. Khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không phụ thuộc vào bất cứ chủ thể nào, kể cả toà án cấp trên, cơ quan lập pháp và hành pháp.
Phân công và phối hợp là hai mặt không thể tách rời của quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Để bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước cần thiết phải có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực. Phối hợp có vai trò là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi nhánh quyền lực nhà nước một cách đầy đủ và kịp thời. Cụ thể trên thực tế: Trong lĩnh vực lập pháp, luật do Quốc hội thông qua, song việc soạn thảo thường do Chính phủ đảm nhiệm, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) quyết định việc lấy ý kiến nhân dân trước khi trình Quốc hội thông qua và cuối cùng là Chủ tịch nước công bố. Chủ tịch nước thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Quốc hội và UBTVQH. Trong quyết định các vấn đề lớn của đất nước, các quyết định quan trọng của Quốc hội hoặc UBTVQH do Chủ tịch nước công bố. Trong việc bầu, các chức vụ cao cấp: Quốc hội bầu Chủ tịch nước theo đề nghị của UBTVQH, Quốc hội bầu Thủ tướng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) theo đề nghị của Chủ tịch nước...
Sự phân công và phối hợp quyền lực được đảm bảo bởi xu hướng dân chủ hoá tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bộ máy Nhà nước ta được xây dựng trên một nền dân chủ đích thực: kết hợp chặt chẽ giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; chế độ bầu cử dân chủ, bình đẳng phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín; các quyền con người, quyền công dân ngày càng được mở rộng.
Thứ ba, về sự kiểm soát quyền lực
Trước hết, về cơ sở của kiểm soát quyền lực. Kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực vốn có của Nhà nước mà là quyền lực của nhân dân, Nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực của mình mà ủy quyền cho Nhà nước thay mình thực hiện, vì vậy tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên là phải kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước của những cơ quan, cá nhân được ủy quyền.
Về mục đích kiểm soát quyền lực nhà nước, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, là loại bỏ những điều kiện xã hội đã sản sinh ra Nhà nước và giai cấp. Đây chính là quá trình khắc phục sự tha hoá của quyền lực nhà nước, đưa quyền lực nhà nước trở về với đúng nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân - quyền lực thực hiện chức năng quản xã hội. Vì thế, có thể nói, mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước là:(1) đảm bảo cho quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích và đúng phạm vi ủy quyền;(2) đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả.
Ở nước ta Nhân dân trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho Toà án, mỗi cơ quan có vị trí tương đối độc lập trong bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình theo đúng Hiến pháp và luật. Để tránh sự lạm dụng quyền lực nhà nước từ phía các cơ quan được giao quyền, Hiến pháp năm 2013 đó quy định nguyên tắc “kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(3). Việc bổ sung thêm nội dung kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng cộng sản việt Nam(4) thể hiện một bước phát triển mới quan trọng trong tư duy lý luận về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam.
Kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thực chất là kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Chỉ trên cơ sở phân công một cách minh bạch, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì mới có căn cứ để kiểm soát việc thực thi.
Ở nước ta sự kiểm soát quyền lực được thực hiện trước hết bởi Quốc hội. Hiến pháp trao cho Quốc hội quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm soát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập(5) Quyền giám sát tối cao của Quốc hội xuất phát từ vị trí pháp lý của Quốc hội: là cơ quan đại biểu cao nhất do cử tri cả nước bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của cử tri cả nước. Với vị trí pháp lý đó, Quốc hội có quyền và đồng thời phải thực hiện quyền giám sát tối cao đối với mọi hoạt động của nhà nước. Nội dung giám sát cao nhất của Quốc hội là giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của những chủ thể có thẩm quyền ban hành có đúng với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội hay không; giám sát hành vi và giám sát năng lực cũng như trách nhiệm của những người được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn(6). Nhờ hoạt động giám sát Quốc hội mới có cơ sở làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân trong việc chấp hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, trên cơ sở đó có thể bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; bãi bỏ các văn bản sai trái của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền(7).
Tóm lại, quyền lực nhà nước thống nhất vào nhân dân và được nhân dân ủy quyền cho Quốc hội và các cơ quan khác của nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội; Toà án thực hiện quyền tư pháp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Đây chính là nội dung căn bản của nguyên tắc tổ chức quyền lực ở nước ta. Đây là cơ chế đảm bảo quyền lực của nhân dân, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động thống nhất và thông suốt, ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực trong bộ máy nhà nước.
__________________________________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 4.2014.
(1), (2) Điều 4 Hiến pháp năm 2013.
(3) Điều 2 Hiến pháp 2013.
(4) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011), Nxb. CTQG Hà Nội, tr.85.
(5), (6), (7) Điều 70 Hiến pháp năm 2013.
ThS Đào Thị Thông
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Bài liên quan
- Cơ sở hình thành văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay
- Nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay
- Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới
- Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- Một số vấn đề về đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng hiện nay
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 47: Người gieo mầm xanh
- 2 Mạch Nguồn 46: Chèo làng Khuốc - Tìm về làn điệu tiến Vua
- 3 Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- 4 Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- 5 Đại hội đại biểu Hội Cựu sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhiệm kỳ 2024 – 2029
- 6 Hội nghị phát động phong trào thi đua đặc biệt “Thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 75 năm truyền thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh” (1949-2024)
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
Bài viết phân tích tầm quan trọng của việc phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương của các doanh nhân; tinh thần tự giác, phấn đấu vươn lên, có ý thức trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nhân; lý tưởng sống cao đẹp, tinh thần tương thân, tương ái, có ước mơ, khát vọng vươn lên; trách nhiệm cá nhân, tinh thần tập thể, tinh thần phục vụ nhân dân của doanh nhân. Trên cơ sở đó, đề xuất 4 giải pháp để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam.
Cơ sở hình thành văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay
Cơ sở hình thành văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay
Văn hoá từ chức là những ứng xử dựa trên lương tri, lòng tự trọng khi những người lãnh đạo thấy mình mắc khuyết điểm, lỗi lầm, thấy không còn xứng đáng đảm nhận được nhiệm vụ hiện tại; là hành vi của cá nhân tự nguyện rời bỏ vị trí lãnh đạo, cầm quyền của mình cho người khác có khả năng hơn (năng lực, trình độ, phẩm chất, sức khỏe…) nhằm đảm bảo lợi ích chung của tập thể, cộng đồng và sự phát triển của đất nước.
Nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay
Nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đây là một trong những nhân tố quyết định trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay, chúng ta phải nghiêm khắc thừa nhận, một số cán bộ đảng viên và tổ chức đảng còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế, yếu kém. Bài viết nêu ra thực trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, từ đó chỉ ra một số phương pháp cơ bản để nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng Đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay.
Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới
Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới
Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới thể hiện sự kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Theo đó, một trong những yêu cầu quan trọng hiện nay là cần tăng cường tổng kết những thành tựu lý luận của Đảng, nhằm góp phần phát triển, hoàn thiện, nâng tầm lý luận của Đảng, nhất là những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đặc thù, riêng có ở Việt Nam, hướng đến thực hiện thắng lợi những mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - một sự kiện trọng đại đã tạo ra bước ngoặt căn bản, làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc, thân phận của người dân và vị thế của quốc gia Việt Nam. Những thắng lợi vĩ đại, những thành tựu đáng tự hào của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 94 năm qua chính là niềm tin, là nhân tố cơ bản để toàn thể dân tộc tiếp tục hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc trong giai đoạn mới.
Bình luận