Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số - nhiệm vụ chiến lược của công tác dân tộc
Nhiều chủ trương, chính sách trực tiếp liên quan đến giáo dục-đào tạo đã được ban hành và tổ chức thực hiện như: Chính sách xây dựng và phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú; Chính sách cử tuyển học sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu về cán bộ là người dân tộc thiểu số tại địa phương; Chính sách ưu tiên điểm đối với học sinh thi đại học, cao đẳng tạo cơ hội cho học sinh tại các vùng miền có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; Chính sách hỗ trợ học sinh là con hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn; Đề án hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956/QĐ-TTg; Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên nghèo.
Nhà nước cũng ban hành một số chính sách có ảnh hưởng gián tiếp đến phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc miền núi, tiêu biểu: Chương trình 135 giai đoạn II; Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững với 62 huyện nghèo giai đoạn 2009 - 2020...
Như vậy, Đảng, Nhà nước ta đã thực thi nhiều chính sách ưu tiên nhằm tạo nguồn, xây dựng đội ngũ lao động, trí thức là người dân tộc thiểu số. Nhờ vậy, đến nay, trình độ dân trí của vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã được nâng lên đáng kể. Về cơ bản, đã thực hiện thành công sự nghiệp xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; quy mô đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục tăng với tốc độ cao; trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật của lao động từng bước được nâng lên; tiềm lực và trình độ khoa học - công nghệ đã có bước phát triển đáng kể... Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú không ngừng được củng cố và phát triển. Hiện có 346 trường với gần 60.000 học sinh thuộc 45/53 dân tộc thiểu số. Vùng miền núi đã có 4 trung tâm đại học khu vực: Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ. Hệ thống trường đào tạo nghề, trường cao đẳng được củng cố, phát triển. Đến nay, đồng bào các dân tộc thiểu số đã có trên 13.000 người có trình độ trên đại học, đại học, cao đẳng; hơn 78.000 người có trình độ trung học chuyên nghiệp...
Tuy nhiên, ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ tái mù chữ còn cao, tình trạng học sinh bỏ học còn nhiều, nhất là học sinh nữ con em các gia đình nghèo. Một số dân tộc ít người chưa có người tốt nghiệp trung học phổ thông. Đến nay, vẫn còn hơn 95% số lao động là người dân tộc thiểu số chưa có trình độ chuyên môn kỹ thuật và chưa qua đào tạo. Trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện còn thấp (khoảng 11,32%). Trong tổng số 48.200 cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã, số người có trình độ học vấn trung học cơ sở chiếm 45,7%, tiểu học 18,7%, chỉ có 1,9% có trình độ cao đẳng và đại học.
Những tồn tại, bất cập trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
Vùng miền núi có cơ cấu kinh tế là nông - lâm - công nghiệp nhưng ngành nông nghiệp chưa có sự thay đổi rõ nét giữa trồng trọt, chăn nuôi và chế biến; sản xuất hàng hóa chưa phát triển, tỷ lệ nông dân sống tự cấp, tự túc cao. Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển nguồn nhân lực nói riêng.
Các chương trình phát triển kinh tế - xã hội chưa có sự lồng ghép chặt chẽ nên hiệu quả chưa cao, nhất là các chương trình về văn hóa, giáo dục, đào tạo, dân số có liên quan đến phát triển nguồn nhân lực.
Công tác quản lý về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực miền núi chưa được quan tâm đúng mức nhất là việc xây dựng chính sách, cơ chế, quy hoạch phát triển mạng lưới đào tạo nghề. Hệ thống các cơ sở dạy nghề còn nhiều bất cập. Nguồn lực đầu tư cho đào tạo nghề từ ngân sách nhà nước đối với đặc thù của vùng miền núi chưa thỏa đáng, thiết bị dạy nghề còn thiếu, một bộ phận cán bộ quản lý dạy nghề chưa có kinh nghiệm thực tiễn, giáo viên thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng; chương trình và nội dung đào tạo nghề chậm đổi mới để bắt kịp với yêu cầu của thị trường lao động. Mặt khác, các cơ sở đào tạo nghề chưa chủ động gắn kết giữa đào tạo với giải quyết việc làm, chưa bắt tay được với các doanh nghiệp để tìm “đầu ra” cho học sinh học nghề.
Công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh và phụ huynh còn nhiều hạn chế, phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông gặp nhiều khó khăn. Tâm lý phổ biến của học sinh và cha mẹ học sinh vẫn mong muốn học đại học, cao đẳng, không muốn học nghề hoặc trung học chuyên nghiệp. Một bộ phận nhân dân chưa nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục, đào tạo và dạy nghề, nên không muốn cho con em học nghề.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số trong thời gian tới cần thực hiện có hiệu quả các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về phát triển toàn diện nguồn nhân lực. Đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục; thông tin công khai, rộng rãi, đầy đủ về các chương trình hỗ trợ, chính sách cử tuyển, cơ hội học tập và nghề nghiệp; phổ biến các mô hình, các tấm gương trong học tập và nghề nghiệp ở địa phương làm nhân tố để nhân rộng; gây dựng và củng cố niềm tin về các cơ hội học tập và nghề nghiệp cho người dân tộc thiểu số, từ đó tạo động cơ thúc đẩy phụ huynh và học sinh nỗ lực phấn đấu theo học, chứ không chỉ dừng lại “học chỉ đủ để biết chữ”.
Hai là, đổi mới chính sách giáo dục - đào tạo ở các cấp. Mở rộng việc dạy và học ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong các trường phổ thông; đổi mới, nâng cao hiệu quả các chính sách cử tuyển dành cho con em các dân tộc thiểu số vào học tại các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp; nâng cao chất lượng, hiệu quả trường phổ thông dân tộc nội trú; mở rộng các khoa dự bị đại học trong các trường đại học cho người dân tộc thiểu số; xây dựng chính sách hỗ trợ phù hợp cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số theo từng cấp học, ưu tiên cho vùng đặc biệt khó khăn. Có chính sách huy động mọi nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị trường học, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ba là, đa dạng hóa, phát triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc thiểu số. Ưu tiên đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở đào tạo nhân lực ở các địa phương, đa dạng hóa các hình thức đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên; tập trung đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học phù hợp với trình độ, năng lực của học sinh, sinh viên người dân tộc, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đưa chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú; phát triển các mô hình trường dạy nghề gắn với các doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Thực hiện các chương trình, mô hình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, hình thành thế hệ nông dân mới, biết ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, thích ứng với cơ chế thị trường.
Bốn là, chú trọng phát triển nhân lực chất lượng cao. Tăng cường thu hút con em là người địa phương tham gia đào tạo nghề sư phạm; phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là người dân tộc thiểu số; có chính sách hỗ trợ, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ nhân lực chất lượng cao để thu hút các nhà khoa học, nhà quản lý giỏi tham gia phát triển kinh tế - xã hội các xã vùng cao, biên giới, vùng đặc biệt khó khăn.
Năm là, nâng cao đời sống mọi mặt của đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe cộng đồng; tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới, từng bước giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc ở vùng dân tộc thiểu số.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số là một quá trình lâu dài và có nhiều khó khăn, thách thức. Song, đây là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu cần tập trung thực hiện, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho vùng dân tộc và miền núi phát triển một cách bền vững. Để làm được điều đó, đòi hỏi phải thực hiện nhiều giải pháp, với sự nỗ lực của mọi cấp, mọi ngành, nhất là sự phấn đấu tự vươn lên của đồng bào các dân tộc thiểu số./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Dân tộc học ngày 25.11.2014
Bài liên quan
- Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
- Giải pháp chủ động phòng ngừa, ứng phó các nguy cơ an ninh phi truyền thống, trọng tâm đảm bảo an ninh mạng, an ninh thông tin trong bối cảnh thế giới đại chuyển đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
- Chăm lo đời sống nhân dân - những thành quả không thể phủ nhận
- Tiếp cận về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
- Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng
Xem nhiều
- 1 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 2 Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- 3 Vấn đề thu phí trên báo mạng điện tử
- 4 Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
- 5 Podcast - biểu tượng sức mạnh của phát thanh hiện đại
- 6 Mô hình Hội đồng trường đại học trên thế giới và những khó khăn khi áp dụng tại Việt Nam
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vấn đề thu phí trên báo mạng điện tử
Phí người đọc trên báo mạng điện tử là khoản tiền mà độc giả chi trả để được sử dụng các dịch vụ mà trang báo mạng điện tử đó cung cấp, trong đó có dịch vụ đọc báo mạng điện tử. Việc thu phí đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới và đang dần phát triển tại Việt Nam. Hoạt động này đã tạo ra một nguồn thu mới cho tòa soạn, giúp duy trì hoạt động phục vụ tái sản xuất báo chí; động viên nhân lực lao động báo chí, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó, tạo động lực cho các tòa soạn sản xuất thêm được các sản phẩm báo chí có chất lượng cao, đáp ứng đủ nhu cầu của người đọc và xã hội.
Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
Bài viết phân tích tầm quan trọng của việc phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương của các doanh nhân; tinh thần tự giác, phấn đấu vươn lên, có ý thức trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nhân; lý tưởng sống cao đẹp, tinh thần tương thân, tương ái, có ước mơ, khát vọng vươn lên; trách nhiệm cá nhân, tinh thần tập thể, tinh thần phục vụ nhân dân của doanh nhân. Trên cơ sở đó, đề xuất 4 giải pháp để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam.
Giải pháp chủ động phòng ngừa, ứng phó các nguy cơ an ninh phi truyền thống, trọng tâm đảm bảo an ninh mạng, an ninh thông tin trong bối cảnh thế giới đại chuyển đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Giải pháp chủ động phòng ngừa, ứng phó các nguy cơ an ninh phi truyền thống, trọng tâm đảm bảo an ninh mạng, an ninh thông tin trong bối cảnh thế giới đại chuyển đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Trong bối cảnh thế giới đại chuyển động dưới ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các vấn đề an ninh phi truyền thống đã trở thành những yếu tố bất ổn, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đồng thời, đặt ra những thách thức mới đối với hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế. Theo thống kê của Liên hợp quốc, an ninh phi truyền thống đang đối mặt với hàng chục mối đe dọa. Trong đó, có những vấn đề cần được đặc biệt quan tâm như khủng bố, ma túy, tin tặc, thảm họa môi trường, dịch bệnh, mua bán người, di cư trái phép, đặc biệt là vi phạm chủ quyền không gian mạng, an ninh không gian mạng, tội phạm công nghệ cao… cần có các giải pháp hữu hiệu để chủ động phòng ngừa, ứng phó. Trên tinh thần đó, các giải pháp được tác giả nhấn mạnh bao gồm về nguồn nhân lực, vật lực, chính sách, đặc biệt là giải pháp công nghệ.
Chăm lo đời sống nhân dân - những thành quả không thể phủ nhận
Chăm lo đời sống nhân dân - những thành quả không thể phủ nhận
Nhằm bảo đảm bản chất dân chủ thật sự của chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định, cần phải để nhân dân không chỉ được “biết”, được “bàn”, được “làm”, được “kiểm tra”, được “giám sát” việc ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, mà quan trọng hơn là phải được “thụ hưởng” những thành quả của tiến trình phát triển đất nước. Trên tinh thần ấy, những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất coi trọng và luôn nỗ lực thực hiện các chính sách xã hội, chăm lo đời sống mọi mặt cho các tầng lớp nhân dân.
Tiếp cận về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
Tiếp cận về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước là một trong các chỉ số quan trọng để đo lường về bình đẳng giới. Vấn đề này được các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm và thể hiện trong các chiến lược phát triển của quốc gia, địa phương hướng tới sự phát triển bền vững, lâu dài. Bài viết nghiên cứu về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam với khái niệm, cách tiếp cận và một số vấn đề cần quan tâm.
Bình luận